Nhường chỗ cho đoàn tàu Bắc – Nam lăn bánh, vài ngôi nhà trên đường Đỗ Tấn Phong thuộc phường 9 (Phú Nhuận, TP.HCM) chấp nhận cảnh từ nhà lớn thành nhà siêu nhỏ. Trong số đó, ngôi nhà của cụ Ngừng chỉ khoảng 2m², tạm bợ, tối tăm.
Xóm nhà siêu nhỏ bên đường tàu
Ngôi nhà siêu nhỏ, siêu đặc biệt của cụ Phạm Thị Ngừng, 89 tuổi nằm trên con đường nhỏ Đỗ Tấn Phong. Tổng thể ngôi nhà như một tổ chim vắt vẻo bên cạnh những căn nhà kiên cố khác. Nếu chỉ tính chỗ ở của cụ Ngừng, ngôi nhà trông như một cái hang nhỏ tối tăm bên đường ray xe lửa.
Cụ Ngừng đã sống ở ngôi nhà siêu nhỏ, có diện tích khoảng 2m² hơn 10 năm. Khoảng năm 1997, hành lang đường sắt được mở rộng, nhà của cụ Ngừng nằm trong diện phải giải tỏa một phần. Ngôi nhà nhỏ đi một chút nhưng chưa siêu nhỏ như hiện tại.
Bà Nguyễn Thị Xuân (57 tuổi, con gái của cụ Ngừng) cho biết: “Giải phóng mặt bằng hoàn tất, nhà tôi cũng không hẹp lắm nhưng cha tôi bệnh liên tục nên đành chia nhà ra, bán cho người ta. Từ đó, cha mẹ tôi sống trong khoảng diện tích nhỏ xíu còn lại, tôi thì sống trên gác cũng từng đó mét vuông, lên trên nữa là chỗ sinh sống của gia đình anh trai tôi”.
Căn nhà của cụ Ngừng như được treo lơ lửng. Cụ Ngừng sống ở tầng dưới cùng của ngôi nhà, phần trên các con của cụ sinh sống.
Trong khu vực này, không chỉ có nhà của cụ Ngừng tồn tại với diện tích siêu nhỏ mà còn vài căn khác. Trong đó, căn nhà của bà Vũ Tuyết Nga (SN 1953) cũng đặc biệt không kém. Ngôi nhà của bà Nga chỉ có 8m² nhưng có đến 10 người cùng chung sống. Con cái của bà Nga đã mất, chồng có vợ khác, cho nên bà cho em gái và mấy đứa cháu ở cùng.
Theo bà Nga, trước khi giải tỏa để làm hành lang đường sắt, nhà của bà khá rộng rãi. Sau đó, nhà còn bề ngang, chiều dài chỉ còn 1m. Bà Nga cố xây sửa để đủ chỗ ngả lưng cho 10 người, chứ chuyện bán nhà chuyển chỗ ở đã không còn khả thi khi rao bán chẳng ai mua.
Nhà cũng chỉ có một phòng vệ sinh nên sáng nào cũng có cảnh người này chờ người kia. Bên dưới nhà làm thành căn bếp và chỗ để xe. Mỗi lần nấu nướng, bà Nga đều phải cẩn thận từng chút một, chỉ cho người lớn nấu.
Cũng may, các cháu của bà Nga đều đi làm buổi tối nên bà còn có chỗ ngả lưng. Ban ngày, các cháu về nhà, bà và em gái phải xuống bếp ngồi, sẵn tiện trông xe. Khi các cháu lớn ra khỏi nhà, hai người già và lũ trẻ con nheo nhóc, chen chúc trên căn gác nhỏ, cố chợp mắt cho qua cơn buồn ngủ. Những ngày mưa đêm, nước tạt vào nhà, mấy bà cháu loay hoay lấy giẻ lau nhà, khô chỗ này lại ướt chỗ kia.
Lúc còn trẻ, bà Nga sống bằng nghề làm móng tay móng chân. Nay sức khỏe đã yếu, không còn đi đứng bình thường, bà trông chờ vào tình thương của con cháu, hàng xóm. Ấy vậy, bà vẫn lạc quan và dang rộng cánh cửa căn nhà siêu nhỏ cho con cháu ở nhờ. “Bây giờ, tụi nhỏ làm gì có 3 triệu đồng để đóng tiền thuê nhà ở khu vực nội thành. Tôi già cũng chỉ mong có chỗ ngả lưng, ngủ chẳng bao nhiêu, ăn cũng ít đi rồi”, bà Nga chia sẻ.
Bà Nga cũng sống trong ngôi nhà có diện tích siêu nhỏ.
Ma chay phải mượn nhà làm đám
Ngồi cạnh cụ Ngừng ở thềm của căn nhà nhỏ, tôi cảm nhận mùi dầu gió tỏa ra đến ngột ngạt. Đảo mắt một vòng, ngôi nhà của cụ như một hộp diêm bé tẹo, có chiếc ti vi cũ kỹ không bao giờ mở, có bàn thờ cụ ông đơn sơ nhưng đủ đầy hương khói. Nhà chẳng có gì đáng giá nên cũng chẳng có cửa nẻo, chỉ có miếng bạt phủ xuống khi trời mưa nắng.
Hôm nay cũng như mọi ngày, cụ Ngừng ngồi ở cửa nhà, thở từng cơn nhọc nhằn. Hễ khó thở hay đau nhức thì cụ lại bôi dầu gió. Con gái cụ nói, nhà lúc nào cũng có mùi dầu gió đậm đặc. Mệt, mắt mờ, tay cụ vẫn lần dò chỉnh sửa vật gì đó kêu è è được che chắn kỹ phía sau chiếc gối. Hỏi con gái cụ thì được biết, cụ đang sửa chiếc radio cũ kỹ để nghe cải lương. Từ ngày chồng mất, cụ Ngừng chỉ biết bầu bạn với chiếc radio.
Nén cơn thở dốc, cụ Ngừng nói: “Buồn lắm, có 2 vợ chồng mà giờ ổng đi, bỏ có mình tôi”. Ông mất vào tháng 9/2019, nhà không để được quan tài, tang lễ phải cậy nhờ nhà của chàng rể. Từ lúc chồng rời xa cõi tạm, cụ Ngừng thui thủi một mình, nhà nhỏ lại hóa thênh thang. Cụ Ngừng nhớ, thuở mười mấy tuổi đã từ quê lên Sài Gòn ở đợ nhà người ta, được người quen mai mối, cụ gặp gỡ và về sống chung cùng ông mà chẳng cần cưới hỏi. Sau đó, vợ chồng cùng làm công nhân, cần mẫn cũng lo cho con ăn học đàng hoàng.
Ngôi nhà của cụ Ngừng giống như chiếc hộp, vừa đủ chỗ cho cụ nằm co ro.
Gần 70 năm, cụ Ngừng vẫn bên chồng, từ nhà to chuyển sang nhà nhỏ; từ chỗ ăn trắng mặc trơn sang bữa cơm tạm bợ; lúc trẻ trung tươi mới cho đến khi già cả mắt mờ, lãng tai, răng rụng. Nhớ lúc ông còn sống, ông thì lãng tai, bà thì mắt mờ. Cụ bà thường nhắc ông uống thuốc, còn ông thường kể cho bà nghe thời tiết hôm nay thế nào, đoàn tàu vừa chạy ngang đi về đâu… Cũng có lúc, hai vợ chồng cùng nhoẻn miệng cười khi đoàn tàu chạy qua làm nhà cửa rung rinh, tim người già chững lại.
Nhắc đến ông, cụ lại bật chiếc radio mấy bản vọng cổ quen thuộc, nằm xuống sàn nhà, đầu hướng ra phía đường ray, mắt nhìn về di ảnh của chồng trên bàn thờ. Đôi mắt kèm nhèm, mờ mờ ảo ảo nhưng cụ biết ông vẫn đang ở đó, nằm quay đầu nhìn về phía mình.
Tựa tường nhà, nhìn mẹ, bà Xuân nói: “Nhà nhỏ, mỗi ngày, chị gái tôi đều nấu cơm đưa sang cho mẹ, còn tôi ăn cơm tiệm hơn chục năm qua. Con của tôi phải mướn nhà ở riêng. Tôi đi phụ bán rau, thu nhập 4 – 5 triệu đồng/tháng, cũng đủ lo điện nước. Mấy chục năm nay, tôi và cha mẹ cứ sống như vậy quen rồi. Lúc còn ông, hai ông bà nằm trở đầu, ông nằm trong bà nằm ngoài. Nay ông mất, bà vẫn giữ thói quen nằm ngoài, nói kiểu gì cũng không vào trong nằm cho ấm”.
Nằm một lúc, cụ Ngừng ngồi dậy, vòng tay ôm lấy đầu gối. Giữa tiếng vọng cổ ngân nga trách than bạn tình rời bỏ, cụ Ngừng như chìm vào thinh lặng dẫu đoàn tàu vừa mới chạy ngang